Lễ hội đền Hùng (hay thường được gọi là ngày giỗ tổ Hùng Vương) từ lâu đã trở thành một nét đẹp trong văn hóa của nước Việt Nam ta. Nó không chỉ đặc sắc bởi nét sinh hoạt văn hóa; mà còn ở tính thiêng liêng của một cuộc hành hương trở về cội nguồn dân tộc của những người con Việt Nam. Vậy chúng ta cùng tìm hiểu xem lễ hội đền hùng diễn ra vào thời gian nào nhé .
Lễ hội đền hùng diễn ra vào thời gian nào
Ngày giỗ tổ Hùng Vương được xác định là ngày mùng 10 tháng 3 Âm lịch. Lễ hội được bắt đầu chuẩn bị hai ngày trước ngày lễ chính thức, tức là vào ngày mùng 8 tháng 3 âm lịch; các hoạt động lễ hội tiếp tục cho đến ngày 11, tức là sau ngày chính thức một ngày.
Lễ hội đền Hùng sẽ có hai phần chính, đó là phần lễ và phần hội. Phần lễ được tổ chức trang trọng, đúng nghi thức với sự tham gia của nhiều vị chức sắc trong làng cũng như các chính khách ở Trung ương về tham dự. Lễ vật dùng trong nghi thức tế lễ bao gồm bánh chưng, bánh giầy, lợn, bò, dê.
Khi tiếng nhạc phường bát âm cất lên thì cũng là lúc chủ tế bắt đầu đọc lời nguyện trước ngai thờ các vị vua Hùng; trước là báo công, sau là cầu phước.
Mỗi lần cụ chủ tế đọc lời tế trong sớ sẽ kèm theo một hồi trống và chiêng hiệu. Sau tiếng trống và chiêng thì đoàn tế sẽ tiến lên phía trước tiền đường quỳ lạy rồi lại lùi về sau. Nghi thức được diễn ra cho đến khi lời nguyện trong sớ được cụ chủ tế lần lượt đọc hết.
Đoàn kiệu cờ hoa, ô lọng rực rỡ; các cỗ kiệu được sơn son thiếp vàng. Các cụ cao niên chức sắc mặc lễ phục giống kiểu quan triều đình thời phong kiến, quần thụng, áo quan và mũ cánh chuồn (hoặc khăn xếp), chân đi hài cao. Không khí của lễ rước kiệu vô cùng đông vui và tấp nập, người người chen chân nhau đi theo để lên đến Đền Thượng.
Lễ hội đền Hùng ở đâu?
Đền Hùng nằm ở trên núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, TP. Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; đây là nơi lễ hội thường được diễn ra hàng năm. Lễ hội mang tính chất quốc gia nhằm suy tôn các vua Hùng – những người đã có công dựng nước. Chắc hẳn mỗi người dân Việt Nam đều thuộc lòng hai câu thơ:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba
Các nghi lễ trong ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Các hoạt động lễ hội chính tập trung quanh Đền Hùng tại thôn Cổ Tích. Ngày mùng 10 tháng 3, tức là ngày thứ ba của dịp lễ hội này, là ngày giỗ Tổ Hùng Vương chính thức mặc dù ngày ấy không phải là ngày mất của vị vua Hùng nào cả.
Nghi lễ rước kiệu về Đền Hùng được tổ chức được bắt đầu từ núi Nghĩa Lĩnh. Lễ rước kiệu bao gồm cờ, lọng, hoa, kiệu, trang phục truyền thống đầy màu sắc. Có rất nhiều người tập trung tại đây để tham gia chuyến rước kiệu lên núi. Lễ rước sẽ dừng lại ở nhiều ngôi đền khác nhau nằm dọc theo tuyến đường lên núi cho tới khi đến được đền Hùng tọa lạc nơi đỉnh núi.
Lễ dâng hương tại đền Thượng. Mỗi người sẽ thắp lên đền một vài nén hương để cầu nguyện tâm niệm của mình với tổ tiên; bởi mỗi năm đất và gốc cây nơi đây đều rất linh thiêng.
Lễ hội đền hùng có ý nghĩa gì?
Đây được xem là ngày hội chung vui của toàn dân; Giỗ tổ Hùng Vương không chỉ đề cao niềm tự hào dân tộc; mà còn nhắc nhở mọi người phải hiểu thấu đáo bản sắc dân tộc, nguồn cội của tổ tiên. Đây là dịp quan trọng để mọi người nhớ về công ơn sâu sắc của các vua Hùng đã có công dựng nước với sự kiên cường chống giặc ngoại xâm, một lòng quyết tâm giữ nước của những người đi trước
Đặc biệt, tín ngưỡng thờ Hùng Vương đã trở thành một di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO công nhận nằm trong di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam ghi nhận. Đây là một di sản có giá trị độc đáo và sẽ ăn sâu trong tâm hồn của đồng bào cả nước.
Các địa điểm tham quan khi đến Đền Hùng
Cổng đền
Được xây dựng vào năm Khải Định thứ 2 (1917). Cổng xây kiểu vòm cuốn cao 8,5m, hai tầng 8 mái, lợp giả ngói ống. Tầng dưới có một cửa vòm cuốn lớn, đầu cột trụ cổng tầng trên có cửa vòm nhỏ hơn, 4 góc tầng mái trang trí Rồng, đắp nổi hai con Nghê.
Giữa cột trụ và cổng đắp nổi phù điêu hai võ sỹ, một người cầm giáo, một người cầm rìu chiến, mặc áo giáp, ngực trang trí hổ phù.
Giữa tầng một có đề bức đại tự: “Cao sơn cảnh hành” (lên núi cao nhìn xa rộng). Còn có người dịch là “Cao sơn cảnh hạnh” (Đức lớn như núi cao). Mặt sau cổng đắp hai con hổ là hiện thân vật canh giữ thần.
Đền Hạ
Tương truyền nơi đây, Mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, sau nở thành 100 người con trai, nguồn gốc “đồng bào” (cùng bọc) được bắt nguồn từ đây. Dấu tích giếng “Mắt Rồng” là nơi mẹ Âu Cơ ấp trứng nay vẫn còn ở phía sau đền.
Đền Hạ được xây dựng lại trên nền đất cũ vào thế kỷ XVII – XVIII. Kiến trúc kiểu chữ “nhị” gồm hai toà tiền bái và hậu cung, mỗi toà ba gian, cách nhau 1,5m. Kiến trúc đơn sơ kèo cầu suốt, bẩy gối vào đầu kèo làm cho mái sau dài hơn mái trước.
Đốc xây liền tường với đốc Hậu cung, hai bên đắp phù điêu, một bên voi, một bên ngựa. Bờ nóc phẳng, không trang trí mỹ thuật. Mái lợp ngói mũi, địa phương gọi là ngói mũi lợn.
Nhà bia
Ngay chân Đền Hạ là Nhà bia với kiến trúc hình lục giác, có 6 mái. Trên đỉnh có đắp hình nậm rượu, 6 mái được lợp bằng gạch bìa bên trong, bên ngoài láng xi măng, có 6 cột bằng gạch xây tròn, dưới chân có lan can.
Trong nhà bia trước đây đặt tấm bia ghi lại việc tu sửa đường lên núi Hùng, hiện nay đặt bia đá, nội dung ghi lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người về thăm Đền Hùng ngày 19/9/1945:
“Các Vua Hùng đã có công dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”
Chùa Thiên Quang
Gần Đền Hạ có một ngôi chùa, xưa có tên là Sơn cảnh thừa long tự, sau đổi là Thiên quang thiền tự. Chùa được xây theo kiểu nội công ngoại quốc, gồm các nhà: tiền đường (5 gian), thiêu hương (2 gian), tam bảo (3 gian) ở phía trước, dãy hành lang, nhà Tổ ở phía sau.
Các toà được làm theo kiểu cột trụ, quá giang gối đầu vào cột xây, kèo suốt. Mái chùa được lập ngói mũi, đầu đao cong. Bờ nóc tiền đường đắp lưỡng long chầu nguyệt. Chùa thờ Phật theo phái Đại thừa.
Trước cửa chùa có cây thiên tuế là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói chuyện với cán bộ và chiến sĩ Đại đoàn quân tiên phong trước khi về tiếp quản thủ đô Hà Nội.
Trước sân chùa có 2 tháp sư hình trụ 4 tầng. Trên nóc đắp hình hoa sen. Lòng tháp xây rỗng, cửa vòm nhỏ. Trong tháp có bát nhang và tấm bia đá khắc tên các vị hoà thượng đã tu hành và viên tịch tại chùa.
Chùa còn có một gác chuông được xây dựng vào thế kỷ XVII, gồm 3 gian, 2 tầng mái, 4 vì kèo cột kiểu chồng giường kết hợp với bẩy lẻ.
Các bẩy lẻ hầu như để trơn không chạm trổ gì. Trên gác chuông có treo quả chuông, không ghi niên đại đúc chuông mà chỉ ghi: “Đại Việt quốc, Sơn Tây dạo Lâm Thao phủ, Sơn Vi huyện, Hy Cương xã, Cổ Tích thôn cư phụng”. Qua đó có thể đoán quả chuông được đúc thời Hậu Lê.
Đền Trung (Hùng Vương Tổ miếu)
Tương truyền là nơi các Vua Hùng cùng các Lạc hầu, Lạc tướng du ngoạn ngắm cảnh thiên nhiên và họp bàn việc nước. Nơi đây vua Hùng thứ 6 đã nhường ngôi cho Lang Liêu – người con hiếu thảo vì đã có công làm ra bánh chưng, bánh dày.
Đền được xây theo kiểu hình chữ nhất, có 3 gian quay về hướng nam, dài 7,2m, rộng 3,7m. Mái hiên cao 1,8m, không có cột kèo, cầu quá giang gối vào tường, bít đốc tường hậu, phía trước mở 3 cửa.
Đền Thượng
Đền Thượng được đặt trên đỉnh núi Hùng. Tương truyền rằng thời Hùng Vương, Vua Hùng thường lên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh để tiến hành nghi lễ tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp thờ trời đất, thờ thần lúa, cầu mong mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, nhân khang vật thịnh.
Tục truyền đây còn là nơi vua Hùng thứ 6 lập đàn cầu trời ban cho người tài ra giúp nước đánh giặc Ân. Sau khi Thánh Gióng đánh tan giặc và bay về trời, vua Hùng cho lập đền thờ vọng trên đỉnh núi, về sau, nhân dân đặt thêm bài vị vua Hùng vào thờ cúng.
Đền Thượng có tên chữ là “Kính thiên lĩnh điện” (Điện cầu trời) còn có tên là “Cửu trùng tiên điện” (Điện giữa chín tầng mây). Trong Đền Thượng có bức đại tự đề “Nam Việt triệu tổ” (Tổ khai sáng nước Việt Nam). Đền được làm kiểu chữ Vương, kiến trúc đơn giản, kèo cầu, không có chạm trổ, được xây dựng qua bốn cấp khác nhau gồm: nhà chuông trống (cấp I), đại bái (cấp II), tiền tế (cấp III) và hậu cung (cấp IV).
Bên phía tay trái Đền có một cột đá thề, tương truyền do Thục Phán dựng lên khi được Vua Hùng thứ 18 truyền ngôi để thề nguyện bảo vệ non sông đất nước mà Hùng Vương trao lại và đời đời hương khói trông nom miếu vũ họ Vương.
Cột đá cao 1,3m, rộng 0,3m, hình vuông. Đến năm 1968, Ty Văn hoá Vĩnh Phú tôn tạo lên bệ như hiện nay.
Lăng Hùng Vương
Lăng Hùng Vương tương truyền là mộ của Vua Hùng thứ 6. Lăng mộ nằm ở phía đông Đền Thượng, có vị trí đầu đội sơn, chân đạp thủy, mặt quay theo hướng Đông Nam. Xưa là mộ đất, thời Tự Đức năm thứ 27 (1870) cho xây mộ dựng lăng.
Thời Khải Định tháng 7 (1922) trùng tu lại. Lăng hình vuông, cột liền tường, có đao cong 8 góc, tạo thành 2 tầng mái. Tầng dưới 4 góc đắp 4 con rồng tư thế bò, tầng trên đắp rồng uốn ngược, đỉnh lăng đắp hình “quả ngọc” theo tích “cửu long tranh châu”.
Mái đắp ngói ống, cổ diêm, 3 phía đều đắp mặt hổ phù. Ba mặt Tây, Đông, Nam đều có cửa vòm, 2 bên cửa đều đắp kỳ lân, xung quanh có tường bao quanh, trang trí hoa, chất liệu bằng đá. Trong lăng có mộ Vua Hùng. Mộ xây hình hộp chữ nhật dài 1,3m, rộng 1,8m, cao 1,0m. Mộ có mái mui luyện.
Phía trong lăng có bia đá ghi: Biểu chính (lăng chính). Phía trên ba mặt lăng đều có đề: Hùng Vương lăng (Lăng Hùng Vương).
Đền Giếng (Ngọc Tỉnh)
Tương truyền là nơi hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa (con gái của Vua Hùng thứ 18) thường soi gương, vấn tóc khi theo cha đi kinh lý qua vùng này. Hai bà có công dạy dân trồng lúa nước và trị thuỷ nên được nhân dân lập đền thờ phụng muôn đời.
Đền được xây dựng vào thế kỷ XVIII, theo hướng Đông Nam, kiến trúc kiểu chữ công, gồm nhà tiền bái (3 gian), hậu cung (3 gian), 1 chuôi vồ và 2 nhà oản (4 gian), có phương đình nối tiền bái với hậu cung.
Cổng Đền Giếng được xây vào thế kỷ XVIII, kiểu dáng gần giống cổng chính nhưng nhỏ và thấp hơn. Cổng xây theo kiểu kiến trúc 2 tầng 8 mái.
Tầng dưới, giữa có một cửa xây kiểu vòm, hai bên có hai cột trụ trên lắp nghê chầu. Tầng trên giữa cổng có bức đại tự đề: “Trung sơn tiểu thất” (ngôi miếu nhỏ trong núi). Hai bên có đề câu đối và tượng hai võ sỹ. Mặt sau cổng đắp hổ, mỗi con một bên.
Đền Tổ mẫu Âu Cơ
Được bắt đầu xây dựng vào năm 2001 và khánh thành tháng 12/2004. Đền được xây dựng trên núi ốc Sơn (núi Vặn) theo kiến trúc truyền thống với cột, xà, hoành, dui bằng gỗ lim, mái được lợp bằng ngói mũi hài, tường bằng gạch bát. Đền chính có diện tích 137m2, làm theo kiểu chữ Đinh.
Bên cạnh đền chính có nhà Tả vũ, nhà Hữu vũ, nhà Bia, Trụ biểu, Tứ trụ, cổng Tam quan, nhà tiếp khách và hoa viên.
Trong đền có tượng thờ Mẹ Âu Cơ và hai Lạc hầu, Lạc tướng. Đường đi lên đền được xây bằng 553 bậc đá Hải Lựu.
Bảo tàng Hùng Vương
Bảo tàng Hùng Vương được khởi công xây dựng vào năm 1996 và được khánh thành đúng ngày khai hội Đền Hùng năm 2003.
Với gần 700 hiện vật gốc trên tổng số hơn 4.000 hiện vật có trong Bảo tàng, 162 bức ảnh, 4 bức tranh gốm, 5 bức tranh sơn mài, 9 bức gò đồng, 5 hộp hình, một nhóm tượng lớn và nhiều hiện vật khác được trưng bày đã khắc hoạ chủ đề tổng quát: “Các Vua Hùng dựng nước Văn Lang trên mảnh đất Phong Châu lịch sử”.
Phần trưng bày của Bảo tàng Hùng Vương được tập trung vào 3 chủ đề chính:
Giới thiệu giai đoạn văn hoá Hùng Vương bằng các hiện vật liên quan đến thời đại Hùng Vương tìm được trên đất Phú Thọ và Vĩnh Phúc.
Giới thiệu việc hình thành khu di tích Đền Hùng và ý thức xây dựng khu di tích Đền Hùng của nhân dân cả nước.
Tình cảm của nhân dân đối với Đền Hùng.
Đền Hùng vừa là thắng cảnh đẹp, vừa là một di tích lịch sử – văn hóa đặc biệt quan trọng đối với người Việt Nam. Về với Đền Hùng là về với cội nguồn dân tộc, để tự hào về dòng giống tiên rồng đang chảy trong huyết mạch của mỗi người dân Việt Nam.
Du lịch Hạ Long |
Du lịch Hải Hòa |
Du lịch biển |
Du lịch Cát Bà |
Du lịch Cửa Lò |
Du lịch hè |
Du lịch Tuần Châu |
Du lịch Thiên Cầm |
Du lịch Hà Nội |
Du lịch Cô Tô |
Du lịch Quảng Bình |
Du lịch Đà Nẵng |
Du lịch Quan Lạn |
Du lịch Hà Giang |
Du lịch Phú Quốc |
Du lịch Sầm Sơn |
Du lịch Tam Đảo |
Du lịch Mỹ |
Du lịch Hải Tiến |
Du lịch trong nước |
Du lịch Châu Âu |
Du lịch Sapa |
Du lịch Huế |
Du lịch Malaysia |
Du lịch miền bắc |
Du lịch Hội An |
Du lịch Campuchia |
Du lịch Mộc Châu |
Du lịch miền trung |
Du lịch Thái Lan |
Du lịch Mai Châu |
Du lịch miền nam |
Du lịch Singapore |
Du lịch Đồ Sơn |
Du lịch Côn Đảo |
Du lịch Nhật Bản |
Du lịch chùa Hương |
Du lịch Ba Vì |
Du lịch Trung Quốc |
Du lịch Đà Lạt |
Du lịch Nha Trang |
Du lịch Hàn Quốc |